Hỗ trợ người lao động “ly nông không ly hương”
Hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) Việt Nam hầu hết được tập trung sản xuất ở các làng nghề và các hộ gia đình, doanh nghiệp nhỏ; các nhóm sản phẩm chủ yếu gồm: Mây tre đan, sản phẩm từ cói và lục bình, gốm sứ, điêu khắc gỗ, sơn mài, thêu ren, điêu khắc đá, dệt thủ công, giấy thủ công, tranh nghệ thuật, kim khí, vàng bạc và những sản phẩm thủ công mỹ nghệ khác. Theo các con số thống kê, Việt Nam có khoảng 2.000 làng nghề thuộc các nhóm sản phẩm trên. Nhiều làng nghề có truyền thống lâu đời hàng trăm năm, mang đậm giá trị văn hoá, lịch sử và sản xuất những mặt hàng TCMN nổi tiếng tập trung đa phần ở các tỉnh phía bắc; riêng TP Hà Nội đã có 266 làng nghề TCMN truyền thống nổi tiếng như Gốm Bát Tràng, Lụa Vạn Phúc, Khảm trai Chuyên Mỹ… Những năm gần đây, hàng TCMN được đẩy mạnh xuất khẩu, đã có mặt tại thị trường của 163 quốc gia và vùng lãnh thổ, đạt giá trị xuất khẩu khoảng 2 tỉ USD/năm. Các sản phẩm TCMN, đặc biệt là các mặt hàng mây, tre, cói của Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang các nước EU, Mỹ, Nhật Bản, tiếp đến là các thị trường Trung Quốc, Anh, Úc, Ấn Độ…
Sản xuất mây tre đan, doanh thu hàng trăm triệu đồng mỗi năm, tạo việc làm ổn định nhiều lao động địa phương.
Theo thống kê của Bộ Công thương, ngành TCMN tạo việc làm cho khoảng 1,5 triệu hộ gia đình và có chừng 1.000 doanh nghiệp trực tiếp sản xuất hoặc xuất khẩu hàng TCMN. Với đặc điểm tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm cao, ngành TCMN đã và đang đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế, đặc biệt là thu hút nguồn lực trong dân, tạo ra nguồn sản phẩm phong phú và đa dạng phục vụ nhu cầu tiêu dùng của xã hội và xuất khẩu; giải quyết một phần nguồn lao động; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố, xoá đói giảm nghèo, hạn chế tình trạng rời bỏ nông thôn của thanh niên các làng quê…
Lợi thế đầu tiên của sản xuất hàng TCMN là sử dụng nguồn nguyên liệu có sẵn và giá rẻ tại chỗ, thậm chí có sản phẩm người làm chỉ cần mất công đi thu lượm chứ không mất tiền mua, như lục bình để làm các sản phẩm đan lát. Ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long-nơi lục bình trôi dày đặc trên các kênh xáng, người nông dân chỉ cần xuống kênh gần nhà, cắt lục bình lên phơi khô để bán cũng có thêm nguồn thu nhập đáng kể. Kĩ thuật đan các sản phẩm từ lục bình (cũng như từ các nguyên liệu khác để đan lát, gia công) đơn giản nên người lớn, trẻ em ở nông thôn đều có thể nhận việc, kiếm 150-300.000đ tiền công/ngày. Báo Người Lao Động dẫn nguồn của Công ty CP Artex Đồng Tháp cho biết, mỗi năm công ty này xuất khẩu khoảng 6 triệu USD các sản phẩm từ lục bình như thảm, giỏ đựng đồ, kệ đựng báo, khay giấy, bình hoa, ghế salon… Theo ông Nguyễn Hữu Hưng, Chủ tịch HĐQT công ty, các sản phẩm chế biến từ lục bình được thị trường Nhật Bản, Mỹ, Đức, Úc… ưa chuộng do bền, đẹp và đặc biệt là thân thiện với môi trường. Tại tỉnh Phú Thọ, nơi có 20 làng nghề thủ công mỹ nghệ đã thu hút được gần 10.000 lao động, bình quân mỗi lao động thu nhập đạt từ 4 – 5 triệu đồng/tháng, tổng doanh thu hằng năm của nhóm nghề này đạt trên 270 tỷ đồng với sản phẩm chủ yếu là đồ mộc gia dụng, nón lá truyền thống, quần áo thổ cẩm, ván ép.
Bài toán giữ chân thanh niên ở lại nông thôn đang ngày càng trở nên phức tạp, khó giải quyết. Việc đầu tư các nguồn lực để bảo tồn, phát triển các nghề, làng nghề TCMN nhằm kéo một bộ phận lao động, nhất là thanh niên “ly nông không ly hương” là một giải pháp cần được chú trọng nhiều hơn trong tổng thể các giải pháp đang được các ban ngành triển khai.
Mở rộng du lịch và quảng bá văn hoá
Trong chiến lược phát triển của mình, ngành du lịch Việt Nam coi trọng việc xây dựng các tour giới thiệu khách trong và ngoài nước tới thăm và mua sắm tại các làng nghề, các địa điểm có nghề truyền thống làm hàng TCMN, đưa hình thức du lịch này làm ưu tiên hàng đầu. Thực tế, việc đưa làng nghề vào khai thác, phát triển du lịch đã thành công ở nhiều nước trên thế giới cả trên bình diện kinh tế và quảng bá văn hóa. Xu hướng du lịch này đem lại nhiều lợi ích cho cả khách và chủ nhà. Khách được tới tham quan những làng nghề truyền thống, nhiều làng có lịch sử hàng trăm năm; hiểu thêm về văn hoá bản địa và được mua sắm những món hàng, đồ lưu niệm đặc sắc mà mình yêu thích do chính những nghệ nhân tại đó làm ra. Các làng nghề nhờ nguồn khách du lịch có thêm việc làm, thu nhập và địa phương có thêm nguồn kinh phí chỉnh trang, làm đẹp làng, khu dân cư.
Du lịch làng nghề đã được đưa vào nhiều tour tham quan của các đơn vị du lịch tại Hà Nội.
Các nghề TCMN truyền thống của Việt Nam trải qua bao thăng trầm của lịch sử đất nước, có suy, thậm chí có nghề bị tàn lụi, có hưng thịnh nhưng dù ở thời đại nào, khi giới thiệu chiều sâu văn hoá, bản sắc dân tộc, các sản phẩm TCMN luôn được trưng ra như các dẫn chứng có giá trị và sống động nhất. Tuy nhiên, hiện nay, nghề TCMN xét cho cùng phải được định giá trị ở sản phẩm-loại sản phẩm hàng hoá. Mà đã là sản phẩm hàng hoá thì phải hướng tới người tiêu dùng. Đây đang là vấn đề đặt ra cho ngành TCMN cả những cơ hội làm ăn phát đạt nhưng cũng phải đối mặt với những áp lực không hề nhỏ.
Cũng giống ngành nông nghiệp khi bước vào thị trường thời kì hội nhập, ngành TCMN đã và đang “phơi mình”với những khuyết tật kéo dài, nói nhiều nhưng chưa đổi mới được: sản xuất quy mô nhỏ lẻ, manh mún, phân tán, thiếu liên kết, thiết bị sản xuất cũ kĩ, công nghệ lạc hậu, thiếu thân thiện với môi trường…Xin nêu ra một số khó khăn gay gắt nhất mà ngành sản xuất hàng TCMN mỹ nghệ đang gặp phải.
Thiếu hụt nguyên liệu: Đặc điểm của các làng nghề TCMN là sản phẩm đặc trưng gắn liền với nguồn nguyên liệu tại chỗ. Nhưng trong điều kiện sản xuất hàng hoá hiện nay, các nguyên liệu đặc trưng này hoặc đã bị khai thác cạn kiệt (nhất là nguyên liệu cho sản phẩm gốm), hoặc bị thay thế bởi những nguyên liệu khác bán được giá hơn. Ngoài thiếu hụt nguyên liệu chính, việc các cơ sở công nghiệp trong nước không quan tâm sản xuất, cung cấp các nguyên liệu phụ trợ như sơn ta đóng hộp, đất gốm đóng bao; các phụ kiện như bản lề, khóa, móc, dây quai; các thiết bị như những loại máy nhỏ cầm tay, các loại keo dán, chất phủ bề mặt phù hợp với các nghề cũng là một khó khăn không nhỏ đối với nhiều cơ sở sản xuất các mặt hàng TCMN . Vì phải nhập phần lớn nguyên liệu từ nước ngoài, mua nguyên liệu từ nơi khác nên chi phí sản xuất tăng trong khi giá bán sản phẩm không tăng, khiến nhiều nghề TCMN trở thành công việc thời vụ, ngày càng teo tóp, nhiều cơ sở không muốn mở rộng quy mô sản xuất.
Mẫu mã đơn điệu, nhàm chán: Các chuyên gia trong ngành TCMN cho rằng, mẫu mã đơn điệu từ lâu đã trở thành bệnh kinh niên của các làng nghề. Ở đây có hai khía cạnh nhìn nhận. Một là sản phẩm TCMN với tư cách là “mẫu vật” thủ công truyền thống thuần túy. Ở góc độ này, sản phẩm thủ công được các nghệ nhân từ đời này truyền sang đời khác giữ nguyên mẫu với tất cả các giá trị từ màu sắc, hình dáng, đường nét, hồn cốt của nó. Chủ nhân làm ra sản phẩm mới là người quyết định mọi chi tiết. Hai là, sản phẩm TCMN với tính chất là một mặt hàng trên thị trường. Lúc này thì thị hiếu của người tiêu dùng mới lại quyết định “dung nhan” của sản phẩm. Như ông Lê Đức Kế, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Du lịch dịch vụ thương mại Bát Tràng (Hà Nội) chia sẻ, nếu nhìn nhận gốm sứ Bát Tràng là làng nghề thủ công thuần túy thì không cần phải bàn thêm, song nếu nhìn là làng nghề TCMN thì những mặt hàng ở đây đang thiếu một nhà thiết kế mẫu hiện đại, có tầm nhìn và dự đoán chính xác về thị hiếu người tiêu dùng, từ mẫu mã, hoa văn…của mặt hàng.
Theo Hiệp hội Gốm sứ Bát Tràng, mặc dù nổi tiếng từ lâu, nhưng đến nay cả làng làm gốm sứ vẫn chưa có một trung tâm thiết kế mẫu nào. Các mẫu chào hàng quà tặng đối tác nước ngoài của Việt Nam cứ na ná hàng Trung Quốc, Thái Lan vì thế, có năm các doanh nghiệp làng nghề Bát Tràng mất 70-90% đơn đặt hàng của đối tác nước ngoài. PGS. TS. Nguyễn Xuân Nghị, Hiệu trưởng Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp thì nhận xét: Trong nghề gốm, những mẫu mới giàu tính sáng tạo, có công năng sử dụng tốt chưa nhiều. Tình trạng cải biên, sao chép mẫu xảy ra phổ biến, tràn lan khiến sản phẩm đơn điệu, nhàm chán. Đặc biệt, sự phụ thuộc vào mẫu mã, mô típ hoa văn, màu men cổ… còn khá nặng nề. Các làng nghề vẫn quẩn quanh với các đề tài cũ như: Tứ linh, tứ quý, ngũ phúc, con dơi, hoa sen… Ngành đang thiếu trầm trọng những mẫu thiết kế theo xu hướng hiện đại, mang dáng dấp Việt Nam.
Bà Hà Thị Vinh, Chủ tịch Hiệp hội Thủ công mỹ nghệ và làng nghề Hà Nội cho rằng, so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Indonesia… hàng TCMN Việt Nam kém cạnh tranh hơn về thiết kế, trong khi sự khác biệt về mẫu mã là một trong những yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Nhiều chủ doanh nghiệp có kinh nghiệm xuất khẩu hàng TCMN sang thị trường EU cho biết, thiết kế mẫu mã có vai trò rất lớn, chiếm tới 30-50% sự thành công của đơn hàng khi vào thị trường này. Theo Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công thương), khách hàng nước ngoài đánh giá hàng TCMN của nước ta yếu nhất là khâu thiết kế. Có khoảng 85% mẫu hàng TCMN xuất khẩu làm theo mẫu của người mua. Sự lệ thuộc này khiến ngành TCMN rơi vào tình trạng không ổn định, đời sống người lao động luôn bấp bênh.
Các làng nghề thiếu người thiết kế đến mức mặc dù sản phẩm của làng mình chất lượng không kém nhưng phải “núp bóng” sản phẩm làng khác, như gốm Phù Lãng, huyện Quế Võ (Bắc Ninh) có lúc phải nhờ danh gốm Bát Tràng. Nhiều nghệ nhân trẻ Phù Lãng đã quyết tâm đèn sách ở các trường mỹ thuật để về làng đổi mới sản phẩm và nhiều sản phẩm gốm Phù Lãng đã đến được Nhật Bản, Hàn Quốc bằng chính tên của mình, nhưng vì thiếu chiến lược định hướng, phát triển thị trường, chỉ một thời gian ngắn, các sản phẩm gốm mỹ nghệ mới ra đời ở Phù Lãng cũng rơi vào khó khăn như cũ.Các làng nghề TCMN Việt Nam có rất nhiều nghệ nhân giỏi nhưng tại sao mẫu mã sản phẩm bị coi là khâu yếu triền miên ? Nhiều chuyên gia trong ngành cho rằng, do nghệ nhân các làng nghề mới chỉ là…thợ khéo tay, chứ chưa phải nhà thiết kế mẫu. Chức năng chính của hàng TCMN là để trưng bày, ngắm nghía nên khâu thiết kế mẫu sản phẩm là chìa khóa giúp doanh nghiệp bán hàng thành công. Tại một cuộc tư vấn, định hướng thiết kế mẫu sản phẩm thủ công mỹ nghệ trước đây do Sở Công thương Hà Nội phối hợp với Hội đồng Anh tại Việt Nam tổ chức, bà Expert Claire Driscoll, chuyên gia giới thiệu, phân tích những xu hướng thiết kế mới trên thế giới (Hội đồng Anh)nói rằng: “Các nghệ nhân, nhà thiết kế cần đặt tâm thế để sản xuất sản phẩm hướng đến thị trường. Thiết kế là “linh hồn” của sản phẩm. Hàng thủ công mỹ nghệ cũng như thời trang, cần có mẫu mới liên tục. Nếu hiểu rõ làm gì, cho ai và đáp ứng được nhu cầu thị hiếu thị trường thì sản phẩm đó sẽ thành công”.
Không có thương hiệu: Kém về thiết kế mẫu mã khiến các làng nghề TCMN làm hoài mà không bứt lên được, không tạo dựng được thương hiệu, không tiếp cận được các thị trường lớn, thị trường mới và chấp nhận hình thức gia công cho thương hiệu của đối tác nước ngoài. Chỉ gia công, xuất khẩu qua khâu trung gian nên lợi nhuận của các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu hàng TCMN rất thấp ( thấp hơn 30-40% so với các nước trong khu vực). Do không có thương hiệu riêng, chi phí nguyên liệu, đầu vào cao nên nhiều cơ sở sản xuất sản phẩm gỗ, như ở Hòa Bình hay lục bình ở Đồng Tháp, Đồng Nai và nhiều làng nghề khác…dù nhận đơn hàng lớn, làm không xuể, nhưng tiền thu về vẫn không đáng là bao. Theo các báo cáo, mỗi năm Mỹ nhập 13 tỷ USD hàng TCMN, nhưng hàng của Việt Nam chỉ chiếm 1,5%; thị trường EU khoảng hơn 7 tỷ USD/năm, hàng Việt Nam chỉ chiếm 5,4%.
Thiếu liên kết, không tạo được chuỗi giá trị: Sự thiếu liên kết thể hiện giữa các làng nghề, cơ sở sản xuất cùng loại sản phẩm với nhau; giữa các hộ sản xuất trong cùng một làng nghề; giữa cơ sở sản xuất với doanh nghiệp xuất khẩu; giữa các làng nghề với ngành du lịch…Lấy ví dụ hình thức du lịch làng nghề, nếu không bàn chuyện liên kết giữa các bên thì sớm muộn hình thức này cũng ngày một teo tóp. Hiện nay hầu hết các công ty du lịch lữ hành chủ yếu khai thác các thứ vốn có sẵn của làng nghề: giới thiệu lịch sử làng, loại sản phẩm TCMN. Khách nghe rất nhanh chán. Phía làng nghề cũng còn nhiều thứ khiến khách tới nhưng không muốn quay lại: bụi bặm, ô nhiễm, thiếu chỗ nghỉ ngơi thoải mái; khi mua sản phẩm thì bị chèo kéo, bắt chẹt giá, hàng Trung Quốc tràn lan, người dân làng nghề thiếu kĩ năng giao tiếp…
Cần được hỗ trợ từ nhiều phía
Những phân tích sơ bộ trên cho thấy, ngành TCMN là thành phần rất quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước: giải quyết việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đóng góp kim ngạch xuất khẩu, quảng bá văn hoá; giữ gìn, bảo tồn hệ thống làng nghề di sản của dân tộc…Từ ý nghĩa đó, ngành TCMN cần được Nhà nước, các bộ ngành chức năng và Hội Mỹ nghệ Kim hoàn Đá quý Việt Nam quan tâm nhiều hơn, vào cuộc thực sự để hỗ trợ ngành TCMN “chữa khỏi” các căn bệnh kinh niên và hồi phục sau đợt “ốm nặng”vì Covid 19.
Trên thực tế, từ lâu Chính phủ và cấp bộ ngành chức năng đã ban hành nhiều chương trình, nghị định, thông tư với các nội dung hỗ trợ phát triển các ngành nghề nông thôn, công nghiệp nông thôn, nghề thủ công mỹ nghệ, làng nghề, như: Nghị định số 52/2018/NĐ-CP về phát triển ngành nghề nông thôn; Nghị định số 45/2012/NĐ-CP về khuyến công; Nghị định số 123/2014/NĐ-CP quy định xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân Nhân dân”, “Nghệ nhân Ưu tú” trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ;…Trên cơ sở các văn bản của Trung ương, các tỉnh, thành phố cũng đã ban hành các chính sách cụ thể hỗ trợ cho nghề này. VGJA là thành viên của UBTU MTTQVN, Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) nên các phản ánh của các nghệ nhân, doanh nhân là hội viên VGJA cũng được MTTQ lắng nghe, truyền tải với các cơ quan lãnh đạo cấp cao; VCCI cũng tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp TCMN tư vấn, tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu…Tuy nhiên, muốn bứt phá, ngành TCMN cần nhận được những hỗ trợ trọng tâm, trọng điểm và mạnh mẽ hơn nữa, đặc biệt là từ Bộ Công thương, VCCI, Bộ NN&PTNT, Bộ Văn hoá-thể thao-du lịch, chính quyền các địa phương có ngành nghề TCMN và Hội VGJA nhằm trước tiên giải quyết các khó khăn nổi cộm và kéo dài sau đây:
Thứ nhất, giải quyết tình trạng sản xuất, kinh doanh thiếu liên kết. Trước hết cần có sự liên kết giữa các hộ, cơ sở, địa phương sản xuất cùng loại sản phẩm TCMN; liên kết giữa vùng sản xuất nguyên liệu với cơ sở sản xuất sản phẩm; giữa doanh nghiệp xuất khẩu với hộ, cơ sở sản xuất TCMN; giữa các cơ sở sản xuất với hệ thống đào tạo nghề, giữa các công ty du lịch với các làng nghề; giữa các hội, hiệp hội nghề với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất…Các mối liên kết này là hết sức cần thiết trong điều kiện thị trường cạnh tranh, giống ngành nông nghiệp đang quyết liệt hướng tới sản xuất theo chuỗi giá trị. Ở khâu này, Bộ Công thương, VCCI cần tư vấn xây dựng chính sách phù hợp, tích cực hỗ trợ triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại tìm kiếm thị trường và phát triển mẫu mã sản phẩm để ngành TCMN nhanh chóng tiến tới liên kết chuỗi giá trị trong sản xuất, kinh doanh.
Thứ hai, Bộ Công thương cần hỗ trợ cụ thể hơn giúp các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất hàng TCMN nhận thức sâu sắc hơn, có kế hoạch rõ ràng về xây dựng thương hiệu sản phẩm và đăng ký quyền sở hữu trí tuệ thương hiệu sản phẩm. Việt Nam đang và sẽ tham gia nhiều tổ chức kinh tế quốc tế lớn, việc tránh vi phạm quyền sở hữu trí tuệ cũng như đăng kí bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là việc buộc các nhà sản xuất, kinh doanh trong ngành TCMN phải hiểu và tuân thủ. Sở hữu trí tuệ và bản quyền tác giả vốn là những “vấn nạn” đối với các làng nghề và các sản phẩm TCMN, ảnh hưởng xấu đối với hoạt động của ngành, của xã hội…Các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu hàng TCMN, các nghệ nhân song song với các biện pháp đầu tư mạnh vào thiết kế, đổi mới mẫu mã sản phẩm trên cơ sở đầu tư nghiên cứu thị hiếu, nhu cầu của thị trường trong nước và nước ngoài phải nhắm tới xây dựng thương hiệu và đăng kí quyền sở hữu trí tuệ thương hiệu sản phẩm của mình. Khi đầu tư vào thiết kế mẫu mã sản phẩm, các doanh nghiệp cần kết hợp và khuyến khích các nghệ nhân, thợ giỏi, các nhà nghiên cứu tham gia đào tạo và thiết kế để có được những sản phẩm vừa giữ được nét truyền thống vừa đáp ứng được thị hiếu và nhu cầu của thị trường.
Thứ ba, trước đòi hỏi ngày càng khắt khe của người tiêu dùng, đặc biệt là tại thị trường các nước Mỹ, Châu Âu, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc…các hộ sản xuất cũng như các doanh nghiệp tham gia sản xuất, xuất khẩu hàng TCMN phải đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm. Hiểu về tiêu chí chất lượng sản phẩm theo các tiêu chuẩn quốc tế ngày nay cũng rất khác trước, trong đó có cả những yêu cầu về bảo vệ môi trường. Để đáp ứng được các yêu cầu chất lượng này, các hộ, doanh nghiệp đơn lẻ khó thực hiện, cần có sự phối hợp hỗ trợ từ Nhà nước, các bộ ngành, chính quyền các địa phương, tổ chức hội, như vay vốn mở rộng sản xuất, thay máy móc cũ, áp dụng công nghệ mới; hỗ trợ đào tạo nghề; được ưu đãi thuê, mua hạ tầng làm xưởng…
Hàng năm Nhà nước dành nguồn ngân sách rất lớn để triển khai các chương trình cấp quốc gia, như Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 – 2020, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020, Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề, Chương trình mỗi xã phường một sản phẩm giai đoạn 2018-2020 (OCOP),…Việc giải quyết các khó khăn và thúc đẩy phát triển nghề TCMN đều có thể triển khai lồng ghép khi thực hiện các chương trình lớn này. Chính phủ đã có gói hỗ trợ trực tiếp bằng tiền ngân sách, ban hành các chính sách hỗ trợ khắc phục hậu quả dịch Covid 19, các cơ sở, doanh nghiệp ngành TCMN cũng cần được tạo điều kiện thuận lợi để tiếp cận và thụ hưởng. Cũng qua đợt dịch này, nhiều hoạt động kinh tế, xã hội đã áp dụng tối đa công nghệ điện tử. Đây cũng là thời điểm các bộ ngành liên quan ra tay hỗ trợ ngành TCMN đẩy mạnh áp dụng thương mại điện tử, xây dựng website giới thiệu, quảng bá sản phẩm, bộ tư liệu, thông tin về làng nghề, nghề TCMN đối với cả khách mua hàng và khách du lịch trong và ngoài nước.
Khi đã nhận được sự quan tâm đúng mức của Nhà nước, có sự chung sức, hỗ trợ của các bộ ngành chức năng và sự ủng hộ của người tiêu dùng trong nước, ngành nghề TCMN chắc chắn sẽ sớm tạo dựng được hệ thống sản phẩm mang thương hiệu quốc gia, thương hiệu từng loại đậm nét văn hoá Việt Nam, phù hợp với nhu cầu, thị hiếu người tiêu dung trong nước và thế giới.
Đức Nguyện